Tên: Võ Hồng Thu Vân
Lớp:10A1 Stt:43
ĐỀ: Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua tác phẩm “Đọc Tiểu Thanh Kí”
BÀI LÀM
Từ xưa đến nay số phận bi kịch, đau
thương của người phụ nữ xã hội phong kiến luôn là đề tài quen thuộc trong nền
văn học Việt Nam .
“Đọc Tiểu
Thanh Kí” là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của
Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Được sáng tác khi Nguyễn Du đọc Tiểu
Thanh Kí, với lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông
cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài
hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về
nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo
le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong
ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng đã làm một tập thơ ghi lại tâm trạng
đau khổ của mình. Ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn sinh bệnh mà chết vào lúc nàng vừa
mười tám là cái tuổi thanh xuân xinh đẹp của biết bao thiếu nữ. Nàng chết rồi,
vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời
chép lại đặt tên là Phần dư do đốt còn sót lại và thuật luôn câu chuyện bạc phận
của nàng.
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà
thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:
“Tây Hổ hoa uyển tẫn
thành khư”
Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp
năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy
diệt. Từ “tẫn” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu
vết gì nữa. Chứng thực một không gian đẹp là khoảng đất bên Tây Hồ, để đối chứng
quá khứ vàng son với hiện tại hủy diệt, Nguyễn Du đã nhìn thấy cuộc thương hải
tang điền trong chớp mắt “Trải qua một cuộc bể dâu”, “Thế gian biến cải vũng
nên đồi”,một con người được ghi ở một tờ giấy viết thật mong manh. Trên gò hoang ấy
chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc
hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc
đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại
về nàng.
Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái
tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:
“Độc điếu song tiền
nhất chỉ thư”
Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp
dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng
lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động
mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời
cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận
Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu
đây. Cái nhìn trầm ngâm của Nguyễn Du về cuộc bể
dâu của sự vật và cái lẻ nhân sinh của kiếp người sao mà cô đơn đến thế. Cái đẹp
bị hủy hoại cùng triệt, dòng thời gian cứ chảy vô tình. Cái lẻ loi và đơn độc của
Nguyền Du không chỉ hiện hình ở cái cảnh buổi chiều tàn bên song cửa sổ, ngồi dọc
chuyện buồn mà còn thể hiện ở hai chữ “độc” và “nhất” đó.
Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
“Chi
phấn hữu thần liên tử hậu
Văn
chương vô mệnh lụy phần dư”
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó.
Chi phấn là son phấn, nghĩa bóng chỉ phụ nữ, tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để
trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có hồn
nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn
lưu lại. Nỗi hận của son phấn cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của
cái đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để
thương để tiếc cho muôn đời. Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần
của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy
vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống
chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để “ với người đời sau những điều tâm huyết.
Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương
cảm, xót xa.
Nhà thơ đã thay đổi số
phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh,
thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng,
như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào:
“Cổ
kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cự”
Phong vận kì oan ngã tự cự”
Ở đây ta hiểu “hận sự”
đó là những việc không hài lòng một cách sâu sắc có thể để hối tiếc mãi. Nó
không phải là “thù hận” mà là “tiếc hận”. Vì thế nghĩa hàm ẩn của nó là: “Những
việc tiếc hận xưa nay không thể truy tìm được nguyên nhân”. Ta nên lưu ý các
nhà Nho không oán người, không trách trời, nên không thể coi đây là lời chỉ
trích oán hận trời. “Phong vận” là từ nói tắt của “lưu phong dư vận” nghĩa là
gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, biểu hiện của tài tình, của bất
diệt. Những kẻ “phong vận” thường có con đường hạnh phúc may mắn vạch ra phía
trước, họ phong lưu tức họ bất diệt. Thế nhưng sao ở ta, ở số kiếp bao nhiêu
người mà ta chứng kiến thì những người ấy thường gặp oan trái kì lạ khó hỏi trời.
Các quy luật đã bị lộn ngược oái oăm đến mức không thể giải thích. Nghĩa hàm ẩn
của câu này là: Những người phong vận tài tình bị oan trái thì thông cảm được với
nhau.
Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc
Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang
thương thân:
“Bất tri tam bách dư
niên hậu, .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Câu hỏi đậm sắc thái
tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và
thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng
cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình
ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang
nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng ? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà
thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết
ấy vào hậu thế. Hậu thế không chi khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp
tài hoa tài tử khác.Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh
tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số
phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc
thương chặng? Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ,
cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa
cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió
cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
“Đọc Tiểu Thanh Kí” với thể thơ Thất
ngôn bát cú luật đường đã thể hiện chân thật lòng cảm thương sâu sắc của Nguyễn
Du với Tiểu Thanh một cô gái tài sắc vên toàn nhưng lại có số phận bi kịch, mất
đi tuổi xuân của chính bản thân mình.
Đồng thời ta cũng thấy được những tâm sự của nhà thơ Nguyễn
Du về sau này. Và thực tế đã cho thấy người đời ngày nay vẫn ca tụng đến ông với
sự tài hoa qua truyện Kiều.Và qua năm tháng, “Đọc Tiểu Thanh Kí” cũng đã có một
chỗ đứng vững chắc trong nền văn học nước nhà.
Bài thơ “Đọc Tiểu
Thanh Kí” đã cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông
biết chừng nào ! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du
không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm.
Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người
hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy
bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh
cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.