Tìm kiếm Blog này

9 thg 12, 2010

Độc Tiểu Thanh ký-Tiếng lòng của người tri âm

Đề: Nghị luận văn học: Độc tiểu thanh kí của Nguyễn Du
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình.Trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Từ đó, ta có thể thấy rằng bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa nỗi đau thương người và long thương mình, giữa sự cảm thông cho kiếp người tài hoa bạc mệnh và long trân trọng phẩm chất con người. Đó cũng là một phần quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là câu chuyện của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh . Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Vì buồn, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Mặc dù vậy, người vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư” . Đó cũng chính là lí do để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Tây hồ có nghĩa là nahc81 tới nơi ở của nàng Tiểu Thanh, nhắc đến những con người tài hoa bạc mệnh. Câu thơ thứ hai xuất hiện hai từ chỉ số ít: “độc” và “nhất”, một mình nàh th7o viết về sự cô đơnqua một tập sách nhỏ, dường như tác giả và nàng Tiểu Thanh đều phải chịu củng chung một hoàn cảnh cô đơn nên có sự đồng cảm. Tuy cuộc sống, thiên nhiên có nhiều thay đổi nhưng nỗi đau của một người tài hoa bạc mệnh khó phai trong long tác giả.

Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có thần vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Còn “văn chương” là hình ảnh hoán dụ biểu tượng cho cái tài. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh. Mượn vật thể để nói về người, gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du. Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư”.Ông cũng cho mình là một con người tài hoa bạc mệnh, cũng là người trải qua nhiều bi kịch và không hề có câu trả lời, ông sinh ra trong một gia đình quyền quý, kiến thức văn chương uyên thâm nhưng lại không thành công trong chuyện thi cử khiến ông phải làm chức quan tầm thường. Hai câu thơ đối đạ bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh. Dường như chỉ có một cách để giải thích cho nội hờn kim cổ là dựa vào kiếp “tài mệnh tương đối”
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)
Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. Ông đặt câu hỏi 300 năm sau có ai hiểu ông không mang ý nghĩa ông đang rơi vào hoàn cảnh bi đát vì hai chữ “trung quân”.
Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy :
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru ngày”

16 nhận xét:

  1. oh hay ge we chu ta
    cam on nhju nha hjjjjjjjjj

    Trả lờiXóa
  2. haay thiet doa.thanks n\ naz

    Trả lờiXóa
  3. 9 diem tro len ! tuyet zoi

    Trả lờiXóa
  4. hay ey"...tks pan.nhju` nhoz..^^!

    Trả lờiXóa
  5. bai nay cua ban rat day du yk.sau sac va day la mot bai de mjk dem vao fog thj day.cam un pan na.hjhj

    Trả lờiXóa
  6. Bai nay mjh vjet laj cham dc 5 djem thoj.Doc kug ko hay

    Trả lờiXóa
  7. Duoc...toi k gioi van. Nhung bai nay khoang 6d thoi...

    Trả lờiXóa
  8. Chua hay lam.luan diem chua ro rang.bai viet de gay nham chan cho nguoi doc.tinh ra thy bai nay khoang 6-7 diem thoy

    Trả lờiXóa
  9. oh hay wa phai thi cho zo ngay bai nay thi mok oy

    Trả lờiXóa